Trong
một cuộc đàm thoại giữa thính chúng thuộc nhiều thành phần xã hội, là nhà truyền
thông, nhà giáo dục, chính khách, … Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời các câu hỏi về
nhiều vấn đề đời sống xã hội tham của người tham dự một cách thẳng thắn và có
duyên. Với phong thái gần gũi, chân thật và giản dị, và qua những câu trả lời
này, phần nào đó trả lời câu hỏi: tại sao Đức Đạt Lai Lạt Ma được nhiều người,
đặc biệt là ở các nước phương Tây yêu mến đến thế.
1.Kính
thưa Ngài, khi còn bé Ngài đã tỏ ra phi thường. Những trẻ em lo âu cho tương lai
của tinh cầu đã thành lập một hội đoàn. Ngài có đều gì muốn nói với trẻ em ngày
nay?
Tương
lai là cái gì ở trước mặt chúng ta, và vì vậy, nó rất quan trọng. Trẻ em có
trách nhiệm về tương lai ấy. Vì rằng bản tính con người căn bản là tốt, nên trẻ
em, khi còn rất nhỏ, không phân biệt lắm giữa người này và người nọ. Các em có
một tình thương và lòng nhân tự nhiên. Ví dụ đối với các em, nụ cười của người
đối diện quan trọng hơn chủng tộc, quốc tịch hay văn hóa của họ. Điều này, theo
tôi rất đáng quý và nó khiến tôi hy vọng ở tương lai. Nhưng mặt khác thì tôi lại
thấy hơi lo: trẻ em đương nhiên có tâm hồn cởi mở và tốt bụng, nhưng một vài
khía cạnh của nền giáo dục mà các em hấp thụ làm tăng thêm mối chia rẽ giữa các
em, điều này chung cục sẽ tạo nên hố ngăn cách giữa trẻ em và những người
khác.
Vì
vậy, tôi thấy là song song với giáo dục, điều tối cần là phải phát triển lòng
nhân mà bẩm sinh các em vốn có. Nghĩa là giáo dục phải hòa hợp với bản chất nhân
hậu của trẻ. Điều chính là nuôi dạy nó trong một môi trường thương yêu và trìu
mến. Mặc dù, lý tưởng mà nói rằng, nếu phải lựa chọn nhiều đức tính rất quý khác
và lòng nhân, chắc chắn tôi sẽ chọn lòng nhân.
Thật
vậy, giáo dục cùng với trí thông minh bẩm sinh của con người, dù quan trọng cách
mấy cũng không đủ để tạo dựng tương lai. Tâm hồn chúng ta phải thấm nhuần đức vị
tha, bằng cách cảm nhạn giá trị nhân bản nòng cốt như tình thương đồng loại. Hãy
tự tạo cho mình lòng nhân và tinh thần khoan dung; hãy cho trí thông minh của ta
phong phú lên nhờ đức tính ấy, và khai thác những đức tính có được giáo dục, để
cả chúng ta và xã hội quanh ta đều được mãn nguyện và hạnh phúc.
2. Tại
sao ở phương Tây cha mẹ và con cái lại “thường bất hòa” nhu vậy?
Tôi
cũng chẳng biết nữa. Có nhiều yếu tố và đều kiện như: thói quen, phong tục và
tấm gương cho trẻ noi theo. Điều có thể tạo nên xung đột trong gia đình. Dĩ
nhiên thật đáng buồn khi mà giữa cha mẹ và con cái, tình thương yêu không còn
nữa. Tôi không thể giải thích những mối bất hòa như vậy bằng một nguyên nhân duy
nhất nào. Vì có nhiều nguyên nhân, nên khi tìm cách giải quyết văn đề, phải nhận
định chúng một cách bao quát, toàn diện.
3. Những
quan điểm chính trị và kinh tế của các nước phương Tây đã vận hành tương đối tốt
trong thập niên 1960, nhưng mọi sự không ổn trong thập niên này. Người ta không
còn thấy bằng lòng nữa. Làm sao chỉnh đốn lại tình thế?
Từ
lúc hãy còn rất bé, tôi đã ham thích kỹ thuật. Một số người cho rằng chính việc
phát triển kỹ thuật đã không hoàn toàn đáng mong muốn. Tôi thì không nghĩ vậy.
Tôi nghĩ rằng tất cả điều do ở thái độ chúng ta, và chúng ta có quyền sử dụng nó
và điều tốt hay điều xấu. Vậy nên, tất cả đều tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy
chúng ta, vào cách chúng ta áp dụng kỹ thuật. Tôi nghĩ hiện nay chúng ta đang
chứng kiến một sự tăng gia kiến thức sâu rộng, nhưng người ta lại không quan tâm
phát triển lòng tốt, thiện tâm và tình thương yêu đồng loại cho bằng quan tâm
đến kiến thức.
Tuy
vậy, tôi nghĩ rằng hiện nay mọi sự đã rất rõ ràng. Con người không phải là sản
phẩm của máy óc. cho nên không mong gì có được hạnh phúc thật sự nếu chỉ tùy
thuộc vào ngoại cảnh. Dĩ nhiên, chúng ta cần có một tối thiểu tài sản vật chất,
nhưng nó không phải là nguyên nhân mang lại hạnh phúc. Những nguyên nhân thật sự
để được hài lòng mãn nguyện phải tìm trong nội tâm ta. Tôi nghĩ đều ấy rất
rõ.
Mặc
dù khó giải thích tiêu này, tôi xin cố gắng diễn tả ý nghĩa của lời giải quyết
ấy. Trước hết phải nhìn nhận hạnh phúc thể hiện trong tâm hồn chúng ta. Những kẻ
chỉ suy nghĩ bằng khoa học kỹ thuật, với chủ trương là có thể giải quyết và hoàn
tất mọi chuyện nhờ có tiến bộ, đều là cực đoan. Tôi phải nhìn nhận đâu là giới
hạn của một lối nhìn như vậy. Khởi đầu bằng cách định đường ranh này khiến chúng
ta khỏi phải ngỡ ngàng khi gặp những trở lực ngoại giới. Theo ý tôi, khi gặp khó
khăn chúng ta đừng nên quá gần mà quan sát chúng. Ngược lại, hãy đứng xa ra một
chút, nhìn với một tam hồn cởi mở hơn, trong một bối cảnh bao quát hơn; khi ấy
chúng ta sẽ tìm ra được giải pháp dễ dàng hơn. Ví dụ chúng ta đang gặp vấn đề
nan giải. Nếu cứ đứng thật gần mà nhìn, ta sẽ thấy khổ đến không chịu nỗi, vì
vậy cứ phải suy gẫm toàn những mặt tiêu cực. Ngược lại, quan sát vấn đề từ một
khoảng cách, biểu lộ một cung cách thoải mái hơn, và xét vấn đề dưới những góc
độ khác nhau, thì giúp chúng ta tìm được những khía cạnh tích cực của tình
huống. Tôi thấy là cần phải kết hợp trí thông minh tự nhiên của mỗi người với
lòng can đảm, để tạo ra niềm tin thật sự. Kinh nghiệm riêng đã dạy tôi rằng nhờ
có thái độ này mà ta để đạt đến sự yên tĩnh của tâm hồn.
4. Các
chính trị gia có thể có biện pháp nào để cho người dân được sung sướng
hơn?
Tôi
nghĩ vai trò này không chỉ giới hạn cho các chính trị gia mà thôi. Nó liên quan
đến mọi người, những nhà giáo dục, khoa học gia, những người thiết lập các lý
thuyết chính trị, các nhà tâm lý học, những người chuyên về khoa học tâm linh,
những nhà trí thức. Tóm lại, việc tìm kiếm những phương thức cho sự bình an nội
tâm là công việc của mỗi người. Ví dụ ngành y khoa ngày càng khám phá thêm nhiêu
tương quan giữa sự thanh thản tâm hồn và sự lành mạnh thể xác. Đó là những công
trình nghiên cứu đáng được phát triển thêm về chiều sâu.
Tôi
phải nói rằng, quý vị trong hệ thống thông tin báo chí ở thời điểm này đóng vai
trò rất quan trọng. Hệ thống thông tin báo chí hiện nay thuộc về một thời đại
tân tiến và trong một phương diện, tôi tin ngành báo chí hành động như một nhà
giáo dục, như một nhân tố kích thích tâm hồn con người. Như vây quý vị có một
vai trò rất đặc biệt. Về điều này, tôi xin trình bày với quý vị một vài ý kiến:
Tôi có cảm tưởng là ngành báo chí thông tin chú ý quá nhiều đến mặt xấu của
những hoạt động của con người, khiến cho quần chúng có cảm tưởng là bản tính con
người hoàn toàn xấu. Khi nghĩ như thế, tự nhiên người ta chán nản và thật sự có
nguy cơ mất hết hy vọng. Loài người có bao nhiêu chuyện để đau khổ, dù chỉ trong
phạm vi hạn hẹp của gia đình. Dù có muôn vàn vấn đề mà con người gặp phải, vẫn
có một tiềm năng để biến đổi: vẫn có thể làm cho hoàn cảnh đó tốt đẹp hơn, vì
thương cảm và từ bi ở trong bản tính của chúng ta. Bằng cách liên kết thông minh
của con người với một động cơ thúc đẩy tốt lành, chúng ta có thể thay đổi cuộc
đời của chúng ta, và cải tạo xã hội. Đối với tôi, đây là điều then chốt. Vì vậy
tôi nghĩ rằng khi trình bày những vấn đề có quan hệ đến con nguồn thì quý vị nên
trình bày một cách quân bình hơn. Dĩ nhiên tất cả những mặt xấu này của cuộc đời
cũng đều quan trọng, chúng cho báo chí những chất liệu tốn nhưng cúng đừng quên
đưa ra những mặt tốt của cuộc đời, căn bản trên bản chất con người và trí thông
minh của ta.
Gần
đây, trong một số quốc gia người ta bàn cãi nhiều về vai trò của báo chí. Có nên
nói hoạch toẹt hết mọi chuyện không? Phải nói cách nào? Chỗ nào trong đời tư,
báo chí không được đụng đến? Tôi có vài ý kiến về vấn đề này, nhất là đối với
những nhân vật lãnh đạo. Có trường hợp mà một số vị này không cư xử đúng đắn
trong cương vị của họ, không tỏ ra có nguyên tắc hay kỷ luật tự giác. Trường hợp
này tôi nghĩ rằng chỉ có báo chí mới có quyền năng kiểm điểm, và đưa ra ánh
sáng, những cung cách hành động như vậy; do đó, tôi ủng hộ hành động của nhà báo
và đánh giá cao khía cạnh lục lọi dò xét. nơi nào cũng xen vào của họ. Không nên
có khoảng cách chênh lệch giữa thể thống bên ngoài và đời tư của một người lương
thiện. Tôi nghĩ báo chí phải cho công chúng thấy rằng một số khía cạnh hấp dẫn
khác hẳn. Chính trong chiều hướng đó mà tôi hơi khuynh về sự can thiệp vào đời
tư của người ta, nhưng không phải vì vậy mà quên rằng chủ đích chung của chúng
ta là phục vụ con người để kiện toàn xà hội. Đừng hành động sai lạc, do những
động cơ xấu thúc đẩy. Tôi tin là, nếu người ta không phơi trần hết thảy những tệ
nạn xã hội như nghiện thuốc, giết người, hãm hiếp và lạm dụng trẻ em, thì những
kẻ vô tội sẽ cứ hàng ngày chịu khổ. Nếu báo chí giải thích rõ ràng, công chúng
rốt cục phải chú ý và tìm ra cách giảm bớt khổ đau.
Tôi
cũng nghĩ rằng, khi nói đến luân thường đạo lý thường thì người ta gắn liền với
nó với những khái niệm tôn giáo. Theo tôi, tách rời hai khái niệm luân lý và tôn
giáo là điều quan trọng. Tôn giáo, lẽ di nhiên giúp chúng ta hiểu được đạo đức
theo chiều sâu duy trì và phát triển nó, nhưng khi nói đến lòng vị tha hay tình
thương yêu đồng loại chẳng hạn, phải biết tha thứ đạo đức này tự nó mà có. Không
phụ thuộc vào tôn giáo, vì nó bắt nguồn từ bản tính thâm sâu của con người, đó
là lòng nhân và tình thương yêu.
5. Ngài
có thể nói khái niệm nghiệp tập thể, nghiệp chung của một quốc gia? Nghiệp chung
này mô tả cái gì ?
Nói
về nghiệp chung của một quốc gia là một điều dễ hiểu. Tuy nhiên, mặc dù sự chín
muồi nghiệp quả của những người trong cùng một nhóm được gánh chịu trong cùng
một lúc, điều này không có nghĩa là những nghiệp này được tích lũy trong cùng
một thời gian. Tôi không tin là những duyên của một nghiệp chung được tạo ra
cùng một lúc, mà chúng được tạo ra trong từng cá thể vào những thời đềm khác
nhau. Sức mạnh của những hành động này và nhiều yếu tố khác nữa có thể tạo nên
một sự nghiệp chung mà một nhóm người hay cả một nước phải gánh chịu.
6. Những
tội nhân chiến tranh trong phần gương những xứ Âu Châu, Đông âu, và những quốc
gia khác tại Á Châu như Cam Bốt và Việt Nam đã không hề được xét xử, và có khi
còn được ân xá ngay cả trước khi được xét xử. Ngài nghĩ thế nào về việc
này?
Thật
đáng buồn, trong nhiều nước vừa mới thoát khỏi chế độ đàn áp, người ta thường
biểu lộ lòng căm hờn và ý muốn trả thù trong khi đáng lẽ phải biết tha thứ và
chấp nhận. Đây không phải là lúc trả thù và thanh toán trong những nước đã được
dân chủ này. Ngược lại, đây là lúc tái thiết quốc gia, xã hội. Tôi đã bày tỏ
điều này khi được viếng thăm một số trong những nước đó.
Tôi
rất quý trọng và ngưỡng mộ những nghĩa cử của các tổ chức như cơ quan ân xá Quốc
tế, họ làm việc một cách chân thành, có hiệu năng và tích cực trong lĩnh vực vi
phạm nhân quyền.
7. Ngài
nói đến sự giải giới nội tại mà phải kèm theo giải giới ngoại tại. Xin Ngài nói
rõ thêm giải giới nội tại là gì trước thù hận của kẻ địch, trước lòng căm hận
của chính mình. Trong tác phẩm Les Voies du Coeur, Ngài cho thấy có thể thành
lập trong tương lai một đạo quân quốc tế. Vì Ngài chủ trương bất bạo động, thì
họ sẽ hoạt đóng cách nào đây? Họ sẽ được vũ trang không?
Ai
cũng biết ràng khả năng chém giết vẫn tồn tại chừng nào người ta còn vung gươm
múa kiếm trong những bang giao quốc tế, hay cả trong phạm vi mỗi quốc gia. Mặt
khác, phải xét lại vấn đề mua bán vũ khí vì tình thế hiện nay vừa khủng khiếp
vừa vô trách nhiệm. Chúng ta suy nghĩ rất nghiêm chỉnh đến vấn đề vũ trang mà,
một khi đã phân tích cặn kẽ, cho thấu rõ cơ chế quân đội là yếu tố chính dẫn đến
tình trạng suy thoái của tình trạng hiện nay, mà nạn khủng bố là do vũ khí mà
có. Vì vậy nguy cơ chiến tranh vẫn còn tồn tại ngày nào mà những cơ chế quân đội
vẫn còn, ở phe này cũng như phe kia. Thế nên, cần phải dẹp bỏ quân đội, từ từ
thôi. Dĩ nhiên, bắt đầu là giải giới nguyên tử, tiếp theo loại bỏ khí giới hóa
học và vũ khí vi trùng, cuối cùng dẹp luôn vũ khí thông thường. Trước hết cần có
sự bảo đảm quốc tế cho công cuộc giải giới này, nó cũng kiểm soát việc mua bán
vũ khí, mà một số người đại diện là kẻ bất lương. Để giám sát việc giải giới
này, có thể đưa vào những lực lượng nho nhỏ giống như một loại cảnh sát quốc tế.
Liên Hiệp Quốc đã tham gia rất nhiều trong hành động quân sự để giải phóng;
chúng ta có thể một lực lượng đa phương hay quốc tế giám sát một nước đã hoàn
toàn giải giới, ý chính tôi muốn đưa ra, là những lực lượng tập thể này sẽ hoạt
động như những lực lượng bảo vệ trị an. Lúc ấy mọi người sẽ thành Bồ tátm, chẳng
cần vũ trang gì nữa! Nhưng tôi chắc là sẽ khó thực hiện.
Một
số người có lẽ không biết giải giới nội tại là gì? Tôi cho rằng căm hận là kẻ
thù độc địa nhất. Đó là kẻ thù của sự thanh thản tâm hồn, tình hữu nghị và sự
hòa hợp, ba yếu tố then chốt cho một sự phát triển tích cực để thực hiện một thế
giới tốt đẹp hơn. Vậy phải tiết giảm hận thù và phát huy đức từ bi, lòng thương
cảm. Đó chính là điều mà tôi gọi là giải giới nội tại.
8. Giận
và ghét khác nhau thế nào?
Riêng
tôi thường phân biệt hai loại tâm lý vẫn đục này như sau. Ghét gắn liền với sự
oán hận người khác, không bao giờ có động lực là lòng xót thương. Vậy cần phải
hủy diệt nó hoàn toàn. Giận bộc lộ một phản ứng cảm xúc tức thì, mà trong Mật
tông, có thể sử dụng được để tu hành. Cũng có khi vì thương mà người ta nổi
giận. Ví dụ như để thúc giục kẻ khác phải tiến hành một hành động khẩn
trương.
9. Xin
Ngài định nghĩa thế nào là một kẻ thù ?
Khi
thấy mình giận ai đến tím mặt, thì biết ngay kẻ thù là gì. Chương bàn về lòng
khoan dung và sự kiên nhẫn trong Bồ tát hạnh của Shantideva định nghĩa kẻ thù là
người hăm dọa mạng sống ta hay bạn hữu ta, của cải ta hay của cải họ v.v… Bạn
của kẻ thù được xem như kẻ thù. Trong pháp môn chuyển hóa tư tưởng (Tạng ngữ
Iodjong) có mục quan sát tính bình đẳng giữa mình và người, dẫn đến ý niệm không
còn thù hay bạn. Không phải phủ nhận sự hiện hữu của họ: kẻ thù và bạn vẫn còn
đó; đúng hơn, sự tu tập này cho thấy không có lý do nào để giận những kẻ xem
mình là thù, hay quyến luyến một số người vì họ là bạn hay bà con ta, nhưng từ
một góc độ khác nhau, có thề xem kẻ ấy là bạn, vì đã cho ta cơ hội để tập tính
nhẫn nhục, khoan dung. Nếu nhìn ở khía cạnh này thì anh ta không còn là kẻ thù
nữa, mà thật hữu ích và có lợi.
10. Một
người Tây Tạng giết chết một con trâu để nuôi sống gia đình có hành động tiêu
cực không? Câu hỏi cũng đặt ra nhu vậy đối với những người cận vệ, vì để bảo vệ
tính mạng cho Ngài, phải biết giết người?
Chúng
ta phải biết hiểu những trường hợp này như thế nào? Dĩ nhiên đây là những hành
động tiêu cực. Cường độ tạo nghiệp của mỗi hành động tùy thuộc vào nhiều yếu tố
như ý định thúc đẩy hành động, ngay chính hành động và suy nghĩ tiếp theo sau
hành động.
11. Trong
lúc theo giáo lý nhà Phật, làm sao sống trong nhũng biến cố tàn bạo như chiến
tranh ?
Điều
quan trọng hơn hết phải tránh chém giết: tự cho mình có quyền cướp mạng sống của
ai là một điều dứt khoát không bao giờ chúng ta được nghĩ đến.
12. Không
bám víu khác với thờ ơ lãnh đạm như thế nào?
Rất
khác: lãnh đạm là hoàn toàn không quan tâm đến đối tượng đang đề cập, trong khi
không bám víu hàm ý còn có một liên hệ.
Để
sáng tỏ ý tôi nói, hãy xét sự bám víu là gì? Nó có hai loại: loại thứ nhất cần
từ bỏ, đó là khi sự bát víu phát sinh do tâm trí bị khuấy động vì nỗi thèm muốn
hay do bất kỳ động cơ tâm lý tiêu cực, loại thứ hai là tình cảm hướng đến những
đối tượng đáng thương khuynh hướng này không xuất phát từ những xúc động tiêu
cực thì phải được đào sâu và tăng trưởng.
Khi
quán tưởng tính Không (vacuité) chúng ta được thúc đẩy phải nới rộng sự bám giữ
sai lạc các hiện tượng và sự cố, tưởng rằng chúng có một sự hiện hữu chắc chắn,
biệt lập. Buông thả sự bám giữ sai lầm đều thiết yếu, nhưng vẫn phải có ý thức
phân biệt cái gì phải vun trồng cái gì nên từ bỏ, và cố gắng phát huy tiềm năng
của những đức tính lành mạnh và tích cực đồng thời dẹp bỏ sức mạnh của những
khuynh hướng tiêu cực và độc hại. Khả năng phân biệt của ta vẫn còn nguyên vẹn.
Trong cùng chiều hướng suy nghĩ đó. Bồ tát phải hủy tận gốc sự kiêu ngạo, tự
hào, Tính khiêm cung tự nhiên đặt vị ấy ở sau mọi người. Tuy nhiên, điều này
không thể ảnh hưởng đến niềm tin vô song và lòng can đảm tuyệt vời của Bồ tát
khi dấn thân giải thoát chúng sinh khỏi khổ ách. Gương từ bi rộng lớn không lẫn
bám víu tiêu cực nào, chứng tỏ rằng trọng hạnh phúc người khác hơn hạnh phúc
riêng
Chính
nhờ trí tuệ và sự tu tâm luyện tính trong trong phương tiện khéo léo cũng như
khả năng sáng tạo của tâm hồn điều cần thiết mà ta có thể thấy sự khác biệt rất
vi tế giữa yếu tố nuôi dưỡng bản ngã, tức sự bám víu, và những đức tính tích cực
lợi tha. Chỉ có sự kết hợp phương tiện và trí tuệ mới phân biệt đúng được. Tôi
thường nói rằng nhắc đến cái “tôi” đương hàm một ý thức mạnh mẽ về tự ngã. Một
trong những hình thức biểu lộ bản ngã là không cần để ý đến kẻ khác, không đếm
xỉa đến hạnh phúc của họ, thậm chí có thể vì tư lợi mà khai thác bất kỳ điều gì
làm cho mình sung sướng. Thái độ tâm lý là rất tiêu cực cần phải đánh đổ. Ngược
lại một khía cạnh khác của cái “tôi” có thể biểu thị bằng lòng tự tin rộng lớn,
khiến ta có thể nói: “Mình có thể hoàn tất điều này điều nọ. Mình có thể làm
việc cho mọi người được sung sướng. Mình sẽ đạt đến toàn giác (eveil parfait) để
làm lợi cho chúng sinh”. Cảm thức ấy thì đừng dẹp bỏ mà ngược lại, phát huy nó,
tăng cường nó! Trên con đường tu tập, tâm trí ta bề ngoài vẫn thảnh thơi, thoải
mái, nhưng tự thẳm sâu trong tâm hồn phải thật minh mẩn tỉnh giác, luôn sử dụng
một cách sáng suốt sự phản tỉnh và chú tâm.
Nguyễn
Thị Phương Thanh dịch (Lược theo Au de là des dogmes)
Nguồn:
Văn Hóa Phật Giáo – Số 48
Không có nhận xét nào